ẢNH HƯỞNG CỦA CÂY CÔNG NGHIỆP THÂN GỖ (CÀ PHÊ) ĐẾN MÔI TRƯỜNG Ở TÂY NGUYÊN

  07/02/2018

ẢNH HƯỞNG CỦA CÂY CÔNG NGHIỆP THÂN GỖ (CÀ PHÊ)

ĐẾN MÔI TRƯỜNG Ở TÂY NGUYÊN

Ngô Đình Quế

MỞ ĐẦU

 Cho đến nay diện tích trồng cà phê ở Việt Nam là rất lớn, lượng cà phê xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới nhưng số công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của việc trồng cà phê đến môi trường, xã hội còn ít.

Nghiên cứu ảnh hưởng của việc trồng cà phê đến xói mòn đất, thử nghiệm các công thức phân bón, phương thức bảo vệ đất chủ yếu do Viện Nông hóa Thổ nhưỡng và Viện Nghiên cứu Cà phê Tây Nguyên thực hiện đã có những kết quả nhất định. Phát triển cà phê ở Tây Nguyên đang là vấn đề bức xúc về môi trường cần phải được nghiên cứu tiếp tục tạo nền sản xuất cà phê bền vững.

THỰC TRẠNG TRỒNG CÀ PHÊ Ở TÂY NGUYÊN

 Tình hình gây trồng cà phê ở Tây Nguyên

Cây cà phê bắt đầu được trồng ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đến năm 1994 tổng diện tích cà phê trong cả nước đạt 150.000ha, vẫn chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (1,32%) trong tổng diện tích các loại cây trồng của Việt Nam. Vào cuối thập kỷ 90, diện tích trồng cà phê đã tăng lên nhanh hơn bình quân 20,7%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam, đứng thứ 3 chỉ sau lúa (61,4%) và ngô (5,7%). Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Trong các tỉnh trồng cà phê, Đăk Lăk có diện tích và sản lượng cà phê lớn nhất cả nước.

 Tình hình sản xuất cà phê ở Đăk Lăk

 Đăk Lăk hiện có gần 1,8 triệu dân, là tỉnh đất rộng, người thưa có nhiều điều kiện để phát triển nông lâm nghiệp, đặc biệt có lợi thế phát triển những vùng chuyên canh nông lâm sản. Trong giai đoạn 1990 – 2000, diện tích trồng cà phê trên địa bàn tỉnh tăng mạnh, khoảng 14,1%/năm. Vào năm 2000, diện tích cây cà phê đã lên tới 260.000ha, trong đó có 223.340ha cà phê được trồng trên đất bazan (88,4%), diện tích còn lại (11,6%) được trồng trên các loại đất khác. Hiện nay, cà phê chiếm 57% diện tích đất nông nghiệp ở Đăk Lăk và 86% diện tích cây công nghiệp lâu năm của tỉnh. Đăk Lăk trở thành một trong những vùng chuyên canh cà phê lớn nhất cả nước, chiếm 50% diện tích và 53% sản lượng cà phê của cả nước.

 Tuy nhiên, việc tăng sản xuất cà phê ở Đăk Lăk chủ yếu là tăng diện tích chứ không phải là do thâm canh. Trong thời kỳ 1990 – 2000, sản lượng cà phê tăng 30,4%/năm thì hai phần ba trong số đó là do tăng diện tích canh tác. Năng suất bình quân của cà phê ở Đăk Lăk là 2,54 tấn/ha.

 Diễn biến tài nguyên rừng

 Những tín hiệu thị trường vào những năm 1990 khuyến khích tỉnh khai thác nhiều đất trồng cà phê, đồng thời số dân di cư tự do cũng “ăn” nhiều vào quỹ đất. Môi trường tự nhiên bị xâm hại nghiêm trọng.

 Độ che phủ của rừng ở Đăk Lăk đến năm 2000 đã giảm xuống 52% (còn khoảng 1 triệu ha). Trong đó rừng giầu chỉ còn 1,5%, thường phân bố trên núi cao; diện tích rừng tự nhiên tập trung vào trạng thái rừng non (35%). Các kiểu rừng 3-5 tầng có tác dụng phòng hộ đầu nguồn, chống xói mòn tốt đã biến thành các kiểu rừng một tầng, chất lượng kém hoặc là các thảm cây trồng nông nghiệp, công nghiệp khác.

Tổng diện tích rừng mất đi trong vòng 20 năm (1982 – 2002) lên đến 277.800ha, như vậy bình quân mỗi năm mất đi khoảng 14.000ha rừng. Diện tích rừng mất nhanh nhất là trong 10 gần đây (giai đoạn 1992 – 2002), bình quân mỗi năm mất 27.140ha rừng tự nhiên.

Suy giảm tài nguyên rừng không chỉ là vấn đề diện tích rừng bị biến mất, mà còn kéo theo các ảnh hưởng như: suy giảm chất lượng rừng, thiệt hại về sinh kế, thiếu đất canh tác, suy giảm nguồn nước.

Đặc điểm cấu trúc rừng

Kết quả điều tra một số loại rừng tự nhiên và cà phê ở Tây Nguyên thấy rằng sau khi phá rừng thay bằng vườn cà phê kết cấu của rừng từ 3 đến 5 tầng chỉ còn 1 đến 2 tầng. Độ tàn che giảm hẳn từ 0,6 – 0,7 chỉ còn 0,2 – 0,3. Tính đa dạng sinh học thay đổi mạnh, cấu trúc rừng đơn giản.

Xói mòn đất

Vùng Tây Nguyên có địa hình chủ yếu là đồi núi, có độ dốc lớn, lượng mưa hàng năm và tập trung từ tháng 5 đến tháng 11, cường độ mưa lớn, vì vậy mức độ xói mòn đất xảy ra rất mạnh. Tác hại của xói mòn không những làm mất đi một lượng lớn đất mặt quý hiếm, mà còn rửa trôi hàng loạt chất dinh dưỡng, biến đất trở nên nghèo, cấu trúc giảm, thậm chí nhiều nơi đất bị xói mòn trơ sỏi đá, mất khả năng sản xuất.

Kết quả nghiên cứu của Hồ Công Trực và Lương Đức Loan về tình hình xói mòn ở Tây Nguyên cho thấy mức độ xói mòn đất ở đây rất lớn. Hàng năm lượng đất bị mất có nơi lên đến hàng trăm tấn/ha, mức độ xói mòn phụ thuộc rất nhiều yếu tố: độ dốc, loại cây trồng, loại đất và phụ thuộc rất nhiều vào tuổi cây trồng.

Tính bình quân trên mội địa hình dốc ở Tây Nguyên lượng đất bị xói mòn đối với cây ngắn ngày là 107,5 tấn đất/ha/năm, với cây công nghiệp ở thời kỳ kinh doanh là 23 tấn đất/ha/năm.

Diễn biến tính chất đất

Kết quả phân tích đất dưới các vườn cà phê trồng có tuổi khác nhau và rừng tự nhiên làm đối chứng cho thấy:

- Sau khi trồng cà phê hàm lượng sét vật lý đều giảm đi từ 1 – 10%, hàm lượng mùn cũng giảm mạnh trung bình từ 30 – 40% sau 6 – 10 năm trồng cà phê. Hàm lượng mùn giảm làm hàm lượng đạm cũng giảm theo.

- Về độ ẩm đất: Kết quả đo độ ẩm đất tại cùng một thời điểm, thấy rằng độ ẩm đất trong rừng tự nhiên và vườn cà phê khác nhau rất rõ rệt trung bình 60 – 65% so với rừng tự nhiên (dù là rừng nghèo kiệt hoặc trạng thái Ic).

- Lượng rơi rụng: Trong khi dưới rừng thứ sinh nghèo kiệt lượng rơi rụng đạt từ 4,5 – 9 tấn/ha thì dưới vườn cà phê sau 6 – 9 tuổi chỉ đạt từ 1,6 – 2,5 tấn/ha cao nhất cũng chỉ đạt 3 tấn/ha. Tuy nhiên với lượng rơi rụng như vậy cũng trả lại một lượng dinh dưỡng nhất định cho đất.

- Hàm lượng vi sinh vật tổng số trong đất trồng cà phê luôn thấp hơn rừng tự nhiên từ 10 – 20% và ở mỗi loại đất lượng vi sinh vật cũng khác nhau.

Khả năng hấp thụ CO2

Kết quả cho thấy: Cà phê là loại cây lấy hạt có năng suất sinh học thấp so với các loại rừng trồng khác. Cà phê 6 tuổi sinh khối chỉ đạt 6.160kg/ha, năng suất sinh học chỉ đạt 1.026 tấn/ha/năm, vì vậy lượng hấp thụ carbon chỉ đạt 3.111 tấn/ha, bình quân là 518,6kg/ha/năm và ở tuổi 9 cũng chỉ đạt được 7.385 tấn/ha và bình quân là 820,6kg/ha/năm. So với các rừng trồng khác thì lượng carbon hấp thụ của cà phê thấp hơn rất nhiều (Keo lá tràm hoặc Phi lao thấp nhất 6 tuổi cũng đạt được 5,4 – 10 tấn/ha/năm).

Tiểu khí hậu

- Nhiệt độ không khí: Chênh lệch nhiệt độ giữa rừng trồng cà phê với rừng tự nhiên là 2,7 – 2,90C.

- Ẩm độ không khí: Độ ẩm không khí chênh lệch rất rõ rệt giữa rừng tự nhiên và vườn cà phê từ 10 – 15% chứng tỏ ở vườn cà phê độ ẩm không cao, ít cải thiện được môi trường.

- Ánh sáng: Sự chênh lệch ánh sáng giữa vườn cà phê với bên ngoài thì vườn cà phê chiếm 50% - 96% ánh sáng tự nhiên. Trong khi đó dưới rừng tự nhiên lượng ánh sáng chỉ chiếm 1 – 8% ánh sáng bên ngoài.

Các chỉ số môi trường không khí trong rừng (nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng trong rừng) có sự chênh lệch lớn giữa trong và ngoài rừng tự nhiên. Ngược lại ở vườn cà phê sự chênh lệch đó là không đáng kể và vườn cà phê dưới 10 tuổi vẫn chưa phát huy được nhiều khả năng phòng hộ.

Các biện pháp hạn chế xói mòn đất với cà phê ở Tây Nguyên

Nghiên cứu về các biện pháp bảo vệ đất chống xói mòn cho cà phê thời kỳ kiến thiết cơ bản tại Eakmat – Buôn Ma Thuột, thí nghiệm chính quy nhiều năm của trạm nghiên cứu đất Tây Nguyên có xây bể hứng hoàn chỉnh đã thu được các kết quả sau:

- Các biện pháp bảo vệ có tác dụng ổn định độ phì nhiêu của đất, hạn chế mức độ xói mòn. Đặc biệt là các biện pháp trồng xen đậu đỗ, băng phân xanh, độ phì nhiêu không những ổn định mà còn được cải thiện rõ rệt: hữu cơ, N, P2O5; K2O được tăng lên.

- Các biện pháp công trình (đào mương, tạo bồn) do giảm được cường độ dòng chảy, tăng lượng nước thấm, giảm lượng đất bị xói mòn nên độ phì nhiêu đất khá ổ định so với đất trống hoặc không có biện pháp bảo vệ đất.

Đề xuất tiêu chuẩn đánh giá môi trường trồng cà phê ở Tây Nguyên

Dựa trên những kết quả nghiên cứu khảo sát đánh giá tác động của cà phê đến 1 số yếu tố môi trường ở Tây Nguyên và các căn cứ đã được xác định làm cơ sở xây dựng tiêu chuẩn đánh giá tác động cảu rừng đến môi trường như ở các phần trên. Tiêu chuẩn đánh giá tác động của cà phê đến một số yếu tố môi trường được đề xuất như bảng dưới đây:

Bảng 1. Tiêu chuẩn đánh giá tác động môi trường của cà phê ở Tây Nguyên

Tiêu chuẩn

Tiêu chí

Chỉ tiêu

Điểm

1. Tiêu chuẩn của thảm thực vật

1.1. Kết cấu của rừng

1.1.1. Hỗn loài có 2 tầng trở lên

1.1.2. Thuần loài chỉ có 1 tầng

10

5

1.2. Độ tàn che

1.2.1

> 0,5

7

1.2.2

0,3 – 0,5

5

1.2.3

< 0,3

3

2. Địa hình

2.1. Độ dốc

2.1.1

< 50

20

2.1.2

5 - 150

7

2.1.3

> 150

1

3. Đất

3.1. Thành phần cơ giới

3.1.1

TB

7

3.1.2

Nặng

7

3.1.3

Nhẹ

3

3.2. Kết cấu

3.2.1

Tơi xốp, viên

10

3.2.2

Hơi chặt

5

3.2.3

Rất chặt

3

3.3. Mùn

3.3.1

> 5%

10

3.3.2

3 – 5%

7

3.3.3

< 3%

5

3.4. Độ dày tầng đất

3.4.1

> 100cm

10

3.4.2

50 – 100cm

7

3.4.3

< 50cm

3

4. Mô hình sử dụng đất

4.1. Mô hình

4.1.1

Xen cây lâm nghiệp (băng muồng, cốt khí) tạo bồn

15

4.1.2

Nông lâm kết hợp

7

4.1.3

Không có biện pháp bảo vệ

1

5. Môi trường

5.1. Nhiệt độ so với bên ngoài

5.1.1

> 20

7

5.1.2

1 - 20

5

5.1.3

< 10

3

5.2. Độ ẩm so với bên ngoài

5.2.1

> 5%

7

5.2.2

3 – 5%

5

5.2.3

< 3%

3

Đánh giá mức độ bền vững của rừng:

- A: Rừng bền vững về môi trường ( > 80 điểm);

- B: Rừng gần an toàn về môi trường (70 – 80 điểm);

- C: Rừng cần tác động để đạt an toàn về môi trường (50 – 70 điểm);

- D: Rừng không an toàn về môi trường (< 50 điểm).

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết luận

Về môi trường: Qua điều tra nghiên cứu việc gây trồng cà phê thành những khu vực lớn đã ảnh hưởng đến môi trường như:

- Kết cấu của rừng từ nhiều tầng giảm còn 1 – 2 tầng, nguồn nước cạn kiệt khả năng phòng hộ kém;

- Mức độ xói mòn đất xảy ra ở Tây Nguyên là rất lớn, ở vườn cà phê có độ dốc 10 – 120 lượng đất mất trung bình là 113 tấn/ha/năm.

- Chất lượng đất suy giảm mạnh về cả tính chất vật lý (hàm lượng sét giảm 1 – 10%), hóa học (hàm lượng mùn, đạm, v.v... giảm) và sinh học (vi sinh vật đất và khả năng hấp thụ CO2 giảm mạnh).

- Các biện pháp bảo vệ đất và trồng xen băng phân xanh và cây họ đậu có tác dụng hạn chế mức độ xói mòn rất đáng kể (0 – 40%) và góp phần làm tăng năng suất cây trồng lên từ (10 – 70%).

Về xã hội: Quá trình thương mại hóa với việc sản xuất cà phê lợi tức cao đã dẫn đến cơn sốt chuyển nhượng quyền sử dụng đất để trồng cà phê. Người dân bản địa không kịp thích nghi với quan hệ thị trường về đất đai. Một mặt, đất tốt được sang nhượng cho chủ trang trại từ nơi khác đến, mặt khác dân địa phương lấn chiếm đất công, đất rừng để sản xuất cà phê trên những khu vực có điều kiện tự nhiên không thích hợp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh thái môi trường khu vực.

Thu nhập và việc làm ở vùng chuyên canh cà phê cao hơn nhiều so với các vùng đồng bằng sông Hồng hoặc miền núi phía Bắc, đã tạo nên sức hút mạnh, hình thành dòng di cư tự do về Tây Nguyên. Việc thay đổi kết cấu cư dân đột ngột không tránh khỏi dẫn tới những xáo trộn về văn hóa, xã hội của vùng. Các hệ thống canh tác đa dạng bảo đảm an ninh lương thực bị loại bỏ trong khi hệ thóng vườn theo kiểu quảng canh, cho phép có thu hoạch trong điều kiện thị trường ổn định nhưng rất rủi ro khi thị trường biến động.

Kiến nghị

Giảm bớt diện tích trồng cà phê

Qui hoạch lại vùng trồng cà phê hợp lý, thu hẹp diện tích sản xuất, nhất là diện tích cà phê vối ở Đăk Lăk là vấn đề cực kỳ quan trọng.

Tiến hành nghiên cứu đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội, tự nhiên và yêu cầu sinh học của các cơ cấu cây trồng khác nhằm xác định số diện tích và số khu vực cần điều chỉnh.

Đối với các vùng đất hợp với cây cà phê, tiếp tục và tăng cường sản xuất cà phê. Về lâu dài, ở các vùng này, cà phê vẫn là cây chủ lực là một nguồn thu nhập quan trọng.

Đối với các vùng đất không hợp với cây cà phê, giảm sản xuất cà phê và đa dạng hóa cây trồng, không nên duy trì các trang trại kém hiệu quả, dành quỹ đất cho các cây trồng khác để cải thiện thu nhập cho người nghèo.

Đa dạng hóa sản xuất

Đánh giá khả năng thích nghi của các loại cây trồng và thông tin rộng rãi cho nông dân để khuyến khích họ tự ra quyết định điều chỉnh sản xuất.

Cần có một số biện pháp và chính sách khác để hỗ trợ người sản xuất ở các loại đất không hợp với cây cà phê chuyển đổi sản xuất, thu hẹp diện tích cà phê vối và phát triển các nguồn thu nhập khác, đồng thời khuyến khích những vùng hợp tăng cường sản xuất cà phe cho dù giá đang ở mức thấp.

Về kỹ thuật

Cần áp dụng những tiến bộ kỹ thuật và những mô hình có hiệu quả về kinh tế và giảm tác hại về môi trường đã có trong thực tiễn để nhân rộng.

Chỉ nên trồng cà phê ở các lập địa phù hợp. Không tiến hành trồng cà phê ở nơi có độ dốc lớn hơn 100 gây xói mòn rửa trôi.

Áp dụng các biện pháp bảo vệ đất, tùy theo loại đất đai từng vùng có thể vận dụng một trong những các mô hình sau: Cà phê trồng xen với cây nông nghiệp trong giai đoạn đầu như Ngô, Đỗ, Lạc; Cà phê trồng xen Tiêu + Keo dậu; Cà phê trồng xen cây ăn quả như Thanh long, Sầu riêng; Cà phê xen băng Muồng hoặc xen Hồng đào.

Cà phê là loài cây lấy hạt cần sử dụng rất nhiều phân bón, vì thế cần phải bón cân đối theo từng giai đoạn, không bón thừa và cũng không bón thiếu để đảm bảo cho sự phát triển của cây và có hiệu quả kinh tế.

Thong tin noi bat HTML